Hòa thượng Thích Pháp Hòa nổi tiếng bởi những bài giảng kinh Phật dễ hiểu, gần gũi và đi vào lòng người. Ngài là một trong số ít những nhà sư đang ở nước ngoài, nhưng rất được bà con trong nước yêu mến, kính trọng. Bài viết dưới đây phần nào sẽ giúp bạn hiểu thêm về cuộc đời của ngài.
Hòa thượng Thích Pháp Hòa nổi tiếng bởi những bài giảng kinh Phật dễ hiểu, gần gũi và đi vào lòng người. Ngài là một trong số ít những nhà sư đang ở nước ngoài, nhưng rất được bà con trong nước yêu mến, kính trọng. Bài viết dưới đây phần nào sẽ giúp bạn hiểu thêm về cuộc đời của ngài.
Vào năm 1980, khi hòa thượng Thích Pháp Hòa được 6 tuổi, cha của thầy đã xa cách gia đình để sang Canada. Mãi đến khi thầy được 12 tuổi thì cả gia đình mới được bảo lãnh sang Canada để được sống cùng nhau.
Năm thầy Thích Pháp Hòa được 7 tuổi, thầy đã sớm có căn duyên đối với Phật pháp. Nhờ đó mà thầy sớm được xuất gia, có pháp danh riêng, thực hiện việc ăn chay và cúng dường Phật pháp.
Năm 15 tuổi, khi đã đủ hạnh nguyên, hòa thượng Thích Pháp Hòa chính thức xuất gia tu hành với Thượng tọa Thích Thiện Tâm (Hiện là hòa thượng viện chủ tu viện trúc lâm và tu viện Tây Thiên ở Canada).
Năm 1994, khi vừa tròn 20 tuổi, hòa thượng Thích Pháp Hòa đã được thọ ký tỳ kheo tại làng Mai trong Đài giới đàn Hương Tích của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Năm 1999, hòa thượng Thích Pháp Hòa vinh dự được Thiền sư Thích Nhất Hạnh truyền đăng với bài kệ pháp:
“Pháp đã trao lòng từ vàng thuở,
Hòa quang tiếp độ khắp quầng sân
Sen nở rạng ngời tròn chẳng nhiễm,
Độ hết muôn phương chốn hữu tình”
Khả năng tự học và trau dồi tốt, kết hợp với tài năng và đức độ của bản thân mà hòa thượng Thích Pháp Hòa đã có rất nhiều bước tiến lớn trên con đường phấn đấu, tu tập. Tới năm 2006, thầy đã chính thức được tấn phong làm trụ trì tại Trúc Lâm Thiền Viện (Tu viện Trúc Lâm Canada). Vào năm 2007, chỉ sau đó có 1 năm, thầy đã được giao trọng trách trụ trì Tây Phương Thiền Viện đồng thời được bầu làm Viện trưởng Viện nghiên cứu và điều tra Phật học Edmonton (Canada).
Bên cạnh việc chuyên tâm tu học, trau dồi thêm kiến thức về Phật pháp, hòa thượng Thích Pháp Hòa còn dành phần lớn thời gian của bản thân để đi tới nhiều ngôi chùa trên đất Canada nhằm thuyết giảng về Phật pháp cho chư Phật tử gần xa. Nhiều bài giảng pháp của thầy được ghi hình lại và phát trên các phương tiện truyền thông đại chúng, để nhiều người không có cơ hội được nghe trực tiếp vẫn có thể xem được và học tập theo.
Để gần gũi hơn với đại chúng, mỗi bài giảng pháp đều được hòa thượng Thích Pháp Hòa khéo léo lồng ghép trong một chủ đề có liên quan tới đời sống như tình yêu thương, tình cảm gia đình, lòng từ bi, sự hận thù,… Do đó, không chỉ giúp chư Phật tử có thêm nhiều góc nhìn mới mẻ hơn về vấn đề trong đời sống mà còn giúp tư tưởng Phật giáo của họ được thấm nhuần một cách rõ nét và tốt nhất.
Sau đây là một số bài pháp thoại nổi bật và mới nhất của hòa thượng Thích Pháp Hòa được nhiều chư Tăng ni, Phật tử gần xa rất yêu thích, có thể kể đến gồm:
Pháp thoại này đã được hòa thượng Thích Pháp Hòa chia sẻ tại chùa Vạn Hạnh Victoria vào ngày 23/08/2020. Nhân dịp qua thăm trụ trì của Vạn Hạnh Victoria, thầy đã có buổi chia sẻ về “Ai là người niệm Phật”. Qua buổi chia sẻ, thầy đã giải thích về ý nghĩa của những câu niệm Phật quen thuộc như các câu sám hối,…
Từ vấn đề này mà thầy Thích Pháp Hòa đã suy rộng ra mục đích sám hối của đạo Phật. Qua đó giúp cho chư Phật tử có thể đi sâu vào cội nguồn nội tâm của mình. Từ đó để suy xét những hành động, ý nghĩ của bản thân. Cuối cùng, chư Phật tử có thể tìm kiếm tâm sáng suốt hiện diện trong mỗi cá nhân, con người mình.
Đây là buổi pháp thoại đã được hòa thượng Thích Pháp Hòa chia sẻ tại Chùa Nam Hòa, Saitama, Nhật Bản vào ngày 26/10/2019. Trong buổi chia sẻ này, bằng cách đặt vấn đề bằng những câu chuyện hài hước, dí dỏm, thầy đã đặt ra vấn đề: Thế nào là tu?”; “tu tập thực chất là thế nào?”; “tu tập có phải chỉ xoay quanh việc tụng kinh niệm phật trong chùa, ngồi nghe Pháp thoại hay không?”; “Làm thế nào để học tu ngay trong đời sống, để tu trở thành cần thiết như không khí, như hơi thở?”;…
Pháp thoại “Sanh tử là lẽ đương nhiên” đã được hòa thượng Thích Pháp Hòa chia sẻ tại Tu Viện Trúc Lâm vào ngày 21/6/2020. Qua bài thơ “Sanh tử lẽ đương nhiên” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy đã giúp chư Tăng ni, Phật tử giải đáp ý nghĩa của bài thơ này.
Theo như hòa thượng Thích Pháp Hoa cho biết, ý nghĩa của bài thơ muốn nói lên rằng: “Trong đời sống này chuyện sinh tử rất bình thường như mây bay trên núi, sóng vỗ ngoài khơi. Chúng ta có thắc mắc cỡ nào thì nó cũng chỉ gói gọn trong 2 chữ sinh tử.” Qua bài viết, thầy cũng muốn giúp chư Phật tử có thể hiểu rõ hơn về quy luật sinh tử để không chìm đắm, luân hồi, khổ đau nữa.
Bên cạnh những bài pháp thoại vô cùng nổi tiếng này của hòa thượng Thích Pháp Hòa. Các bạn có thể tìm kiếm dễ dàng các bài pháp thoại khác trên nền tảng các mạng xã hội trực tuyến như Facebook, Youtube,…
Trò chuyện với PV Báo CAND trước sự kiện kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu (1/7/1822-1/7/2022), Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre Cao Văn Dũng cho biết, tại kỳ họp lần thứ 41 (diễn ra vào cuối tháng 11/2021 tại Paris, Pháp), khi thông qua hồ sơ khoa học Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trong danh sách các danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử có tầm vóc quốc tế niên khóa 2022 – 2023, Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã khẳng định: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam; tấm gương vượt qua nghịch cảnh và theo đuổi lý tưởng học tập suốt đời”.
Ngoài sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn là một nhà giáo được người đời quý mến về tài năng, đức độ; trọn đời dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho môn sinh đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc. Điều đáng khâm phục nữa là khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu mới học làm thuốc và trở thành một thầy thuốc giỏi, một lương y tinh thông về y lý. Trên thế giới hiếm có danh nhân nào đạt trên cả 3 lĩnh vực đồ sộ như Cụ Đồ: Thơ văn, thầy giáo, thầy thuốc.
Sau liên tiếp nhiều biến cố của cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học và bốc thuốc. Thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu được gọi là Đồ Chiểu từ đó. Nguyễn Đình Chiểu từng ở ba nơi, đó là quê mẹ huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là phường Cầu Kho, quận 1, TP Hồ Chí Minh); quê vợ huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định (nay là tỉnh Long An) và huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Vì thế, trường học của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu cũng thay đổi ba lần. Học trò của ông ở xung quanh và đến từ các vùng quê xa. Cũng như nhiều nhà nho thời đó, Cụ Đồ lấy nhà mình làm trường học.
Bà Mai Kim Ba (tức Nữ sĩ Mai Huỳnh Hoa, 1910 – 1987; con của học giả Mai Bạch Ngọc, vợ thứ của chí sĩ Phan Văn Hùm), là cháu cố (chắt ngoại) của Nguyễn Đình Chiểu nhớ lời kể của bà ngoại mình (Nữ sĩ Nguyễn Thị Xuân Khuê, tức Sương Nguyệt Anh – con gái của Cụ Đồ) từng viết năm 1935 trên báo Tân Văn: “Học trò ước có hai trăm người, ngồi ra hai hàng tả hữu nghe giảng. Tiên sinh mắt đã mù, không còn xem sách được, nhưng mỗi bữa hỏi học trò tới đoạn nào, thì tiên sinh giảng đoạn ấy, như ngó thấy sách, vì tiên sinh thuộc lòng các sách”.
Cách dạy của các nhà nho thời đó là truyền khẩu, giảng bài từ các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách kinh điển của Nho giáo dưới thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Nội dung các sách này đã thấm vào Nguyễn Đình Chiểu khi ông được một thầy đồ trong làng giảng dạy ngay từ nhỏ. Đến năm 11 tuổi được cha gửi cho một người bạn là thái phó của triều đình Huế để Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ăn học.
Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã học vỡ lòng trong sách “Minh tâm bửu giám” (Gương báu soi sáng cõi lòng). Và sau khi tiếp thu từ người thầy thuộc lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản (Người thầy của Nguyễn Đình Chiểu vốn là học trò của Nghè Chiêu, mà Nghè Chiêu lại là học trò của cụ Võ Trường Toản) về “dưỡng khí”, “tập nghĩa” nhất là cách giáo dục xuất phát từ tâm tính tốt của người Gia Định “Trung dũng, khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài”… Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho học trò đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc…
Nhiều thế hệ môn sinh tiếp thu sự giáo dục của thầy Đồ Chiểu trở thành những người nổi tiếng, đặc biệt trong đó có 2 người con của Cụ đã có những đóng góp sâu sắc cho sự đổi mới của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Người đầu tiên là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (tức Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, 1864 - 1922), nhà thơ, nữ chủ bút (Tổng biên tập) đầu tiên của Việt Nam - báo Nữ Giới Chung (Tiếng chuông nữ giới) là tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, xuất bản ở Sài Gòn ngày 1/2/1918. Tháng 7/1918, tờ Nữ giới chung bị đóng cửa. Giống như người cha, Sương Nguyệt Anh bị bệnh mắt, dần dần mù hẳn, phải dò dẫm bốc thuốc, dạy học, sáng tác. Hiện còn lưu truyền một số bài thơ của bà, như: Tức sự, Cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến, Thưởng bạch mai, Vịnh ni cô, Đoan ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Vua Thành Thái vào Nam, vè thầy Hỷ, vè đánh đề…
Và nhân vật thứ hai là Nguyễn Đình Chiêm (1869 - 1935) tự là Trọng Vĩnh, hiệu Sơn Đầu (người dân Ba Tri từng quen gọi là Bảy Chiêm). Ông hành nghề đông y; ngoài ra, còn sáng tác, dịch thơ, là tác giả hai vở tuồng hát bộ Nam Tống tinh trung và Phấn Trang lầu nổi tiếng Nam bộ.
Nhiều người dân vùng Ba Tri, Bến Tre còn nhớ ông nội, ông thân sinh của mình kể lại trước đây từng là học trò của Nguyễn Đình Chiểu.
Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn có hai học trò ưu tú hoạt động tích cực trong phong trào Phật giáo yêu nước là Hòa thượng Lê Khánh Hòa (1877 - 1947), người có công lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ những năm 1920 - 1945 và Hòa thượng Thích Khánh Thông (1871 - 1953), cũng là người có uy tín lớn trong giới tăng, ni, Phật tử ở Bến Tre những thập niên nửa đầu thế kỷ XX.
“Với người mắt sáng, dạy học đã khó nhưng người mắt mù thì càng khó khăn vạn lần hơn. Thế nhưng bằng tất cả ý chí, bằng tất cả thiện cảm đối với người đi học và quan trọng hơn là bằng tất cả kinh nghiệm qua quá trình tiếp xúc đó đây, Nguyễn Đình Chiểu sớm trở thành một nhà giáo được người đời ngưỡng mộ”, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre cho biết.
Ngoài việc dạy học, sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn nghiên cứu thêm nghề làm thuốc và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Nếu nói đến những danh y xuyên suốt lịch sử của Việt Nam từ xưa đến nay không chỉ nổi danh bởi tài năng y học, chữa bệnh cứu người mà còn được biết đến như những nhà văn, nhà thơ, chiến sĩ cách mạng, luôn đau đáu vì vận nước, vì nhân dân thì Nguyễn Đình Chiểu xếp ở vị trí thứ ba chỉ sau Tuệ Tĩnh (người đã đặt nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam với tư tưởng: “Nam dược trị Nam nhân” - thuốc Nam chữa bệnh cho người nước Nam. Ông được xem là bậc thầy của thầy thuốc Việt, ông tổ của ngành Y nước nhà) và Hải Thượng Lãn Ông (tức Lê Hữu Trác, người vừa chữa bệnh, vừa dạy học, vừa biên soạn sách y khoa. Toàn bộ sách Hải Thượng để lại mà ngày nay, chúng ta được thừa hưởng như một tài sản vô giá của nền y học cổ truyền Việt Nam gọi là “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh”).
Và trong 300 năm trở lại đây, Nguyễn Đình Chiểu là người thứ nhất đạt được những thành tựu trên lĩnh vực y thuật và y đạo.
Nguyễn Đình Chiểu một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý phương Đông và y lý Việt Nam, cả về y thuật và y đức mà y đức của Nguyễn Đình Chiểu chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân, cứu nước. Bằng vốn kiến thức đã có từ trước và sau khi được danh y truyền dạy nghề làm thuốc trong thời gian điều trị bệnh ở Quảng Nam (trên đường từ Huế trở vào Gia Định để chịu tang mẹ), Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu học thêm, trở thành lương y chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ngư Tiều y thuật vấn đáp khái quát nội dung và nói lên quan điểm y học của tác giả, biện luận trên cơ sở âm dương - những điều thiết yếu nhất về phương pháp và đường hướng trị bệnh, nói lên một đường hướng y học chân chính, cả về đạo đức và chuyên môn. Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu nghề thuốc rồi làm lương y để chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ông đã dốc lòng giới thiệu nghề thuốc của mình và trình bày những cương mục về lí luận Đông y có kèm theo giải thích một số thuật ngữ thiết yếu liên quan đến ngành y. Nhất là vấn đề về y thuật gồm có các phần: Mạch, chế dược, vận khí, thương hàn, sản phụ, nhi khoa... Rồi đến ngũ tạng trong cơ thể con người bao gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, là những tạng khí có công năng tàng trữ và gạn lọc, chế tạo ra tinh khí. Một tạng bị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành chung.
Ông cũng chỉ ra những bài thuốc cụ thể: cây cỏ đều có chất độc lành khác nhau, chưa rõ tính chớ nên dùng… Có những nguyên lý cơ bản của Đông y đã được Nguyễn Đình Chiểu trình bày trên cơ sở âm dương, thủy hỏa, khí huyết. Ông đã trình bày một cách cụ thể về cách chữa bệnh vì bệnh có “hư hư thực thực”, biến đổi nhiều, nhiều chứng, nhiều phương. “Chữa bản” là chữa thẳng vào bệnh. “Nên bổ” nghĩa là lối chữa bệnh chủ yếu về dinh dưỡng, dùng thuốc để phục hồi sức khỏe. “Nên trước nên sau” là bệnh nào gấp hơn thì chữa trước nhưng phải tùy nghi mà dùng. Chỉ cần chẩn trị sai lệch một chút thì sẽ an nguy đến tính mạng.
Với 66 tuổi đời, gần 40 năm chữa bệnh cứu người, đối với một thầy thuốc bình thường điều ấy đã là một đóng góp, nhưng với một thầy thuốc mù lòa như Nguyễn Đình Chiểu, càng đáng ghi nhận.
Bên cạnh về chuyên môn, trong quá trình hành nghề đây đó của mình, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nhận thấy một số người không nắm rõ về y thuật, chỉ am hiểu một vài phương thuốc lăng nhăng cũng tự cho mình là thầy thuốc, làm nghề chữa bệnh. Vì thế, Ngư Tiều y thuật vấn đáp ra đời (gồm 3.642 câu lục bát và 21 bài thơ), ngoài tác dụng động viên lòng yêu nước, chí căm thù nhân dân đối với quân thù, đều cần nhất là nêu ra những vấn đề nhằm chấn hưng y học cổ truyền, xây dựng một nghề y chân chính.
Tác phẩm thể hiện tư tưởng y đức học của Nguyễn Đình Chiểu là toàn diện, cao cả; ông khuyên người thầy thuốc cần trau dồi cả tài năng và đức độ trong cuộc đời hành nghề của mình. Nguyễn Đình Chiểu đề cao tinh thần, trách nhiệm của người thầy thuốc đối với tính mạng bệnh nhân, thương yêu người bệnh: “Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng mau mau trị lành”. Và răn ngừa việc lợi dụng hay lừa dối người bệnh để lấy tiền một cách vô lương tâm: “Vốn không theo thói tham nhăng/ Nhân khi bệnh ngặt đòi ăn của nhiều”. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng cứu chữa cho những người nghèo khổ, chu cấp thuốc men, tận tình giúp đỡ họ mà không phân biệt đối xử: “Đứa ăn mày cũng trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đã cho hậu thế chúng ta học tập ở Cụ Đồ tinh thần yêu nước chân thành, ý chí đấu tranh bất khuất, đạo đức liêm chính, khắc khổ, nhẫn nại, cần cù lao động và kiên trì trong sự nghiệp của mình, với mục đích phục vụ lợi ích lâu dài cho Tổ quốc.
Với y thuật và y đạo để vừa cứu người, vừa cứu dân, cứu nước, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một danh y, danh sư - Người thầy thuốc mẫu mực trong lòng nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu không những chữa bệnh về thể xác mà còn chữa bệnh về tinh thần. Theo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre, chỉ riêng tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đủ thấy biệt tài về y học của Nguyễn Đình Chiểu, cụ đã nói lên các chứng bệnh với bệnh lý một cách sâu sắc, đồng thời cũng hàm chứa một tinh thần yêu nước, thương dân. Giáo sư Lê Trí Viễn từng viết trong đề tựa quyển Ngư tiều y thuật vấn đáp lần xuất bản năm 1982 rằng: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước...”.
“Cả nước đang nỗ lực chấn hưng ngành giáo dục; nhiều chủ trương, biện pháp, phong trào… được triển khai sâu rộng ở các cấp học. Trong đó, vấn đề “dạy chữ kết hợp dạy người” chính là sự kế thừa những tinh hoa giáo dục của các bậc tiền nhân mà Nguyễn Đình Chiểu là một người thầy tiêu biểu với triết lý “văn dĩ tải đạo”, sửa đời, dạy người”, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bến Tre Cao Văn Dũng chia sẻ.