Sự Ra Đời Của Công Nghệ In 3D

Sự Ra Đời Của Công Nghệ In 3D

Một số dấu mốc quan trọng của ngành công nghệ ô tô thế giới

Một số dấu mốc quan trọng của ngành công nghệ ô tô thế giới

Học ngành gì để làm việc trong lĩnh vực công nghệ?

Dựa vào thực trạng về sự phát triển của công nghệ thông tin của nước ta đề cập phía trên, có thể thấy học và theo đuổi lĩnh vực này sẽ là một sự lựa chọn sáng suốt cho nhiều người trẻ trong tương lai. Vậy bạn cần học ngành gì để có cơ hội làm việc trong lĩnh vực công nghệ? Câu trả lời là các ngành công nghệ thông tin, khoa học máy tính, an toàn thông tin, kỹ thuật điện tử viễn thông.

Thật may mắn rằng, tất cả các lĩnh vực kể trên đều là kiến thức đào tạo trong chương trình đại học từ xa trình độ đại học của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Bạn chỉ việc đăng ký theo học và sẽ được hướng dẫn đầy đủ kiến thức và kỹ năng chuyên môn để ra tìm việc làm. Yêu cầu duy nhất cho quá trình xét tuyển đầu vào là người học cần tốt nghiệp Trung học phổ thông trở lên.

Hình thức giảng dạy sẽ sử dụng phương pháp đào tạo E-learning, tức là người học không cần phải đến trường để học. Mà thay vào đó, bạn sẽ ở nhà, dùng máy tính thông minh để truy cập vào hệ thống Elearning để học. Đây là hình thức đào tạo tiện lợi dành cho những người đang đi làm, có ít thời gian rảnh để đi lại hoặc thích không gian học tập yên tĩnh.

Các học phần đào tạo có nội dung kiến thức do các giảng viên biên soạn, nên bạn chỉ việc học theo lộ trình được đưa ra. Sau khi hoàn thành đủ tín chỉ, bạn sẽ được cấp bằng tốt nghiệp kỹ sư. Với tấm bằng này, bạn có thể dễ dàng tìm kiếm việc làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay.

Trên đây là những chia sẻ về sự phát triển của công nghệ thông tin trên thế giới và tại Việt Nam hiện tại. Hy vọng rằng bài viết đã chia sẻ những thông tin hữu ích tới bạn đọc.

Nguồn: Ehou.vn; Vjst.vn; Tuoitre.vn; Vnexpress.net

VIDEO REVIEW & HƯỚNG DẪN MÁY IN 3D

Hướng dẫn in 3d FDM toàn tập (Cơ bản + Nâng cao)

Hướng dẫn in 3d Resin toàn tập (Cơ bản + Nâng cao)

Ứng dụng in 3d trong quy trình đúc Kim Hoàn

Ứng dụng kỹ thuật số trong ngành Nha Khoa

Ứng dụng in 3d trong quy trình đúc Kim Hoàn

Ứng dụng kỹ thuật số trong ngành Nha Khoa

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những biểu trưng thể hiện chủ quyền và bản sắc của riêng mình. Quốc kỳ nền đỏ sao vàng rực rỡ, tươi thắm, xứng đáng là một biểu tượng đặc biệt, thiêng liêng, cao quý và đầy tự hào của nước Việt Nam.

Từ đầu những năm 1930, trong các cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam, đã thấy xuất hiện lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh nhưng được lồng trên hình búa liềm. Cuối năm 1940, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp và phátxít Nhật diễn ra mạnh mẽ tại các tỉnh miền Nam. Từ ngày 21 đến 23/9/1940, Xứ ủy Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ tiến hành họp mở rộng, bàn kế hoạch khởi nghĩa. Trước lúc khởi nghĩa, một vấn đề quan trọng đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng. Cuộc họp Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động khởi nghĩa vào ngày 23/11/1940 và thực hiện di huấn của Đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng - lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa với ước muốn là sau khi đánh đổ thực dân đế quốc sẽ thành lập nước Việt Nam cộng hòa dân chủ và Quốc kỳ Việt Nam sẽ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa.

Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, là một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình và tài hoa) được trao nhiệm vụ sáng tác mẫu cờ. Sau nhiều ngày suy nghĩ, miệt mài phác thảo, đồng chí Tiến đã hoàn thành sứ mệnh đặc biệt này: Tạo ra lá cờ hình chữ nhật có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa nền đỏ tươi. Chiều rộng lá cờ bằng 2/3 chiều dài. 5 đỉnh của ngôi sao nằm trên đường tròn có tâm tại chính tâm lá cờ và bán kính bằng 1/5 chiều dài lá cờ (tức bằng 3/10 chiều rộng). 5 đỉnh còn lại của hình thập giác thể hiện ngôi sao đều nằm trên đường tròn đồng tâm mà bán kính bằng 1/10 chiều dài lá cờ (như vậy, mẫu ngôi sao này hơi khác - đầy đặn hơn - ngôi sao trên Quốc kỳ Việt Nam hiện nay). Nguyễn Hữu Tiến cũng sáng tác một bài thơ đầy tâm huyết về lá cờ:

Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc

Nền cờ thắm máu đào vì đất nước

Đứng lên mau hồn nước gọi  ta rồi

Hỡi sĩ - công - nông - thương - binh

Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.

Ban lãnh đạo khởi nghĩa khi đó là Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai... rất tâm đắc và đã chuẩn y mẫu cờ trên. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp với biểu tượng cờ đỏ sao vàng, làm lao đao chính quyền đô hộ. Chúng đàn áp khốc liệt. Hàng ngàn người bị bắt, tra tấn và giết hại. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù ngày 28/8/1941 cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai... Trước lúc ngã xuống, đồng chí đã kịp gửi lại một bài thơ động viên đồng bào, chiến sĩ, với những câu tràn trề tinh thần lạc quan cách mạng:

... Anh em đi trọn con đường nhé

Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai...

Trung tuần tháng 5/1941, tại rừng Khuổi Nậm thuộc Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Tháng 9/1941, văn kiện Chương trình Việt Minh được soạn thảo, trong đoạn mở đầu ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ”. Đây được coi là văn bản đầu tiên chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng.

Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) đã thống nhất quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ, ở giữa có một sao vàng năm cánh.

Quốc kỳ nền đỏ sao vàng rực rỡ, tươi thắm trong các sự kiện

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay, đỏ rực cả Quảng trường. Ngày 5/9/1945, Bác ký Sắc lệnh số 5-SL ấn định Quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946, Bác phát biểu khẳng định: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi Quốc kỳ và Quốc ca…”, toàn thể đại biểu Quốc hội đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ nước ta. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam thông qua cuối năm 1946 cũng quy định rõ: “Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.

Sau ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam đã liền một dải. Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại Thủ đô Hà Nội, thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, đổi Quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và công nhận Quốc kỳ Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều chính thức hóa, cụ thể hóa mô hình Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, bùng lên giả thuyết đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (1901-1941) không phải là tác giả cờ đỏ sao vàng, mà người ấy là đồng chí Lê Quang Sô (1894-1978). Theo đó, được sự phân công của Tỉnh ủy Mỹ Tho (nay là Tỉnh ủy Tiền Giang), từ đầu năm 1940, đồng chí Lê Quang Sô đã tìm kiếm, phác thảo nhiều mẫu quốc kỳ và đến tháng 4/1940 chọn vẽ mẫu nền đỏ sao vàng. Tháng 7/1940, hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ đã phê duyệt mẫu nền đỏ sao vàng và lấy đó làm lá cờ chính thức trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11/1940… Cùng với ảnh hưởng của giả thuyết này, trong Công văn số 1393/VHTT-BTCM mà Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Lưu Trần Tiêu ký ngày 18/4/2001 cũng ghi rõ: “Tất cả các nguồn tài liệu hiện có tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, tại Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều không có tài liệu nào chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc”. Dù vậy, đến nay, tranh luận về tác giả vẽ Quốc kỳ vẫn chưa ngã ngũ, nhưng quan điểm “đồng chí Nguyễn Hữu Tiến chính là tác giả vẽ Quốc kỳ” vẫn được đông người ủng hộ hơn.

Về ý nghĩa hình thức Quốc kỳ, nền đỏ tươi tượng trưng cho màu máu đỏ, màu nhiệt huyết cách mạng, màu sinh lực và chiến đấu, chiến thắng; sắc vàng tươi của ngôi sao tượng trưng cho màu da vàng, cho sự rạng rỡ của linh hồn dân tộc Việt Nam; 5 cánh sao là sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp nhân dân (sĩ, công, nông, thương, binh) trong sự nghiệp dựng, giữ và phát triển đất nước. Về định dạng hình thức Quốc kỳ, nền Quốc kỳ màu đỏ tươi, hình chữ nhật với chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, ở giữa có ngôi sao vàng 5 cánh màu vàng tươi; tâm ngôi sao trùng với điểm giữa (điểm giao nhau của hai đường chéo) Quốc kỳ; khoảng cách từ tâm ngôi sao đến đầu mỗi cánh sao bằng một phần năm chiều dài Quốc kỳ; một cánh sao có trục từ đỉnh vuông góc với cạnh dài Quốc kỳ và hướng thẳng lên phía trên theo đầu cột treo Quốc kỳ; từ đầu mỗi cánh sao đến đầu cánh sao đối diện (cách 1 cánh) là đường thẳng, không phình ở giữa, cánh sao không bầu; hai mặt Quốc kỳ đều có sao vàng trùng khít nhau. Hiến pháp năm 2013 hiện hành tiếp tục khẳng định và chính thức hóa mô hình Quốc kỳ Việt Nam bằng quy định tại Khoản 1 Điều 13: “Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”./.

1. Sự phân chia nghệ thuật thành mỹ thuật và mỹ nghệ

Khái niệm “nghệ thuật” như chúng ta hiểu ngày nay là phát minh của người châu Âu vào t.k. XVIII.

Trước đó khái niệm nghệ thuật bao gồm một hệ thống rất rộng.

Từ “art” trong tiếng Anh/Pháp, chỉ “nghệ thuật”, có gốc từ tiếng Latin “ars” và tiếng Hy Lạp “techne” (τέχνη). Trong suốt khoảng hai ngàn năm, từ thời Hy Lạp Cổ đại vào khoảng t.k. VIII TCN tới cuối thời Trung Cổ – đầu thời Phục Hưng vào t.k. XV, từ này đã được dùng để chỉ bất kỳ thứ kỹ năng nào của con người, từ làm bát đĩa, may vá, đóng giày, thêu thùa, nấu nướng, tới làm thơ, vẽ, chơi đàn, ca hát, xây dựng, trị bệnh, v.v..

Vào thời Trung Cổ nghệ thuật được chia làm hai thể loại là các Nghệ thuật Khai phóng (Liberal Arts) và Nghệ thuật Cơ học (Mechanical Arts). Nghệ thuật Khai phóng gồm 7 nghệ thuật: văn phạm, hùng biện, logic – tạo thành Trivium, và số học, hình học, thiên văn, âm nhạc – tạo thành Quadrivium. Nghệ thuật Cơ học bao gồm đan lát, vũ khí, thương mại, nông nghiệp, săn bắn, y thuật, nhà hát. Hội họa và điêu khắc không có tên trong danh sách này.

Khái niệm về các họa sỹ, điêu khắc gia, kiến trúc sư thời Trung Cổ không giống như khái niệm chúng ta hiểu ngày hôm nay. Từ “artefice” trong tiếng Ý thời đó (artifex trong tiếng Anh) được dùng để chỉ cả “nghệ sỹ” (artist) và “nghệ nhân” (artisan). Theo khái niệm này, từ họa sỹ, nhà soạn nhạc tới nhà giả kim thuật, thợ đóng giầy, tất cả đều là “artefici”. Artefice được coi là người làm ra sản phẩm chứ không phải nhà sáng tạo. Họa sỹ thời Trung Cổ vẽ từ các bích họa trên tường các giáo đường, tòa nhà, trang trí nhà cửa, đồ đạc cho các gia đình giàu có, tới các bức tranh theo đặt hàng. Các artefici thường làm việc theo tập thể trong một xưởng nào đó mà người đứng đầu (chủ xưởng, master) đứng ra ký hợp đồng. Thậm chí đến cuối t.k. XV họa sỹ vẫn chỉ được coi như thành viên của một nhóm, mỗi người đảm nhiệm một phân khúc công việc trong tổng thể. Ví dụ điển hình là vụ Leonardo da Vinci kiện chủ đặt hàng vì đã trả công cho Giacomo del Mano, nghệ nhân làm bộ khung án thờ, nhiều hơn ông và trợ tá vẽ bức tranh “Thánh Mẫu Đồng Trinh trong hang đá” để lắp vào án thờ đó (hợp đồng ký ngày 25/4/1483). Cuối cùng ông và trợ tá đã được trả 1000 ducats, còn Giacomo Del Mano 700.

Chỉ tới t.k. XVIII, thế kỷ Ánh sáng (tiếng Pháp: le Siècle des Lumières; tiếng Anh: the Age of Enlightenment), nghệ thuật mới được tách thành hai lĩnh vực, một bên là Mỹ thuật (Belle Arti trong tiếng Ý, Fine Arts trong tiếng Anh, Beaux-Arts trong tiếng Pháp [1]), bao gồm thi ca, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, múa, bên kia là Nghệ thuật Thủ công và Nghệ thuật Dân gian, gọi tắt là Mỹ nghệ, như làm đồ gốm, đóng giầy, cắt may, thêu thùa, chạm khắc, dân ca, v.v..

Các tác phẩm của Mỹ thuật giờ đây được coi là thành quả từ cảm hứng sáng tạo và thiên tài, được tạo ra trước hết để chiêm ngưỡng, tận hưởng cảm giác thẩm mỹ do chúng khêu gợi trong những giờ phút an lạc. Trong khi đó Mỹ nghệ chỉ đòi hỏi kỹ năng, tuân thủ các quy tắc, và được tạo ra chủ yếu để phục vụ một mục đích hữu dụng nào đó, như làm bát đĩa, tách chén, bàn ghế, trang trí đền đài, nhà cửa, cắt may quần áo, hay để tiêu khiển.

Quá trình chuyển hóa từ quan niệm Nghệ thuật cũ tới sự phân chia Mỹ thuật và Mỹ nghệ không xảy ra ngay lập tức mà đã được khởi đầu và diễn ra từ từ trong suốt thời Phục Hưng, từ giữa t.k. XIV tới t.k. XVII. Đây là thời kỳ tính cá nhân và thiên tài của họa sỹ dần dần được đề cao.

Lúc đầu, bất chấp các tư tưởng mới và một thiểu số các tinh hoa được đánh giá cao trong một nhóm nhỏ, hầu hết các hoạt động thực hành nghệ thuật vẫn chịu sự điều khiển của hệ thống nghệ thuật cũ. Mặc dù hội họa, điêu khắc và kiến trúc cùng những người tạo ra chúng có vị thế cao hơn thời Trung Cổ, chúng chưa được liên kết với thi ca và âm nhạc để tạo nên Mỹ thuật như một thể loại riêng biệt. Cho tới suốt t.k. XVII các học giả vẫn bám vào hệ thống phân chia thành các Nghệ thuật Khai phóng và Nghệ thuật Cơ học của thời Trung Cổ. Thi ca được kết hợp với văn phạm và hùng biện, lý thuyết âm nhạc với hình học và thiên văn, thuộc các Nghệ thuật Khai phóng, trong khi hội họa, điêu khắc và kiến trúc được xếp vào các Nghệ thuật Cơ học [2].

Các họa sỹ, điêu khắc gia, và kiến trúc sư thời Phục Hưng vẫn phải làm việc theo các hợp đồng, trong đó các chi tiết như đề tài, nguyên vật liệu, kích thước, thời gian thực hiện, ngày giao nộp sản phẩm, giá cả được quy định tỉ mỉ. Thậm chí những phần cần sử dụng các vật liệu đắt tiền như lapis lazuli (lưu ly) hay vàng ròng cũng được ghi cụ thể. Ngày nay, khi tán dương tài hòa sắc của một danh họa đã vẽ áo choàng của Thánh Mẫu Đồng Trinh bằng màu lam lưu ly rực rỡ, hoặc vương miện dát vàng chói lọi của một quân vương, có lẽ cũng cần lưu ý rằng những màu sắc đó có thể không do họa sỹ quyết định mà là yêu cầu của chủ đặt tranh. Tuy nhiên tính độc lập của nghệ sỹ dần dần được nâng lên, như trong giai thoại về sự cố giữa Donatello và một thương gia Genova. Thương gia này đặt Donatello làm một bức tượng đầu người bằng đồng to bằng kích thước thật. Sau khi Donatello làm xong thương gia này lại kỳ kèo muốn giảm giá tiền với lý do Donatello làm bức tượng quá nhanh, chỉ khoảng một tháng. Nổi giận vì bị xúc phạm, Donatello đã đập tan bức tượng và mắng thương gia nọ là kẻ chỉ quen mặc cả mua rau ngoài chợ [3].

Vị thế của các họa sỹ và điêu khắc gia được đề cao rõ rệt nhờ sự ra đời của tầng lớp nghệ sỹ cung đình. Một loại hình hội họa mới xuất hiện: tự họa của các họa sỹ, trong y phục sang trọng, như để khẳng định địa vị xã hội của mình. Albrecht Dürer là họa sỹ châu Âu đầu tiên đã vẽ chân dung tự họa một cách có hệ thống. Ví dụ điển hình là tự họa năm 1500 của ông, trong đó, để thể hiện vị thế và sự tự tôn của bản thân, Dürer đã vẽ mình như Salvator Mundi (Đấng Cứu thế), với tư thế nhìn trực diện, ngón tay trỏ hướng thượng, hợp với ngón giữa, tạo thành chữ D, chữ cái đầu tiên của họ ông (Dürer) và cũng là của Chúa Trời (Dio), trong khi mái tóc xõa xuống vai và cái cằm ngang tạo thành chữ A, chữ cái đầu tiên của tên ông (Albrecht). Chữ ký tắt AD của ông lại được đặt ngay dưới năm 1500, thành 1500 AD (Anno Domini), tức năm thứ 1500 kể từ khi Chúa ra đời, như muốn nhấn mạnh mối liên hệ giữa ông và Thượng Đế.

Đó là những bước quan trọng tiến tới quan niệm hiện đại sau này về nghệ sỹ như một cá nhân sáng tạo độc lập. Song chỉ tới cuối t.k. XVIII, khái niệm “nghệ sỹ” mới được dùng để chỉ các nhà sáng tạo ra các tác phẩm mỹ thuật, trong khi “nghệ nhân” hay “thợ thủ công” là những người làm ra các vật hữu dụng hoặc để giải trí, tức mỹ nghệ.

Khoái cảm trong nghệ thuật do đó cũng được phân chia thành hai loại: loại đặc biệt và tinh tế dành cho mỹ thuật, được gọi là thẩm mỹ, và loại tầm thường dành cho mỹ nghệ. Mỹ thuật từ nay đóng vai trò quan trọng trong việc thăng hoa tinh thần tới một chân lý cao siêu hoặc để hàn gắn tâm hồn. Sự chiêm ngưỡng phi vụ lợi, trước kia chỉ dành cho Chúa Trời, nay cũng được dùng cho mỹ thuật.

Tới thế kỷ XIX, vị thế của nghệ sỹ như một nhà sáng tạo độc lập đã được khẳng định trong tuyên ngôn nổi tiếng của Oscar Wilde [4]:

“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả duy nhất của một khí chất duy nhất. Vẻ đẹp của nó xuất phát từ một thực tế rằng tác giả của nó chính là anh ta. Nó không liên quan gì tới việc người khác mong muốn cái họ muốn. Thật vậy, một khi nghệ sỹ ghi nhận những gì người khác muốn, và cố gắng đáp ứng nhu cầu của người khác, anh ta đã không còn là một nghệ sỹ nữa, mà đã trở thành một gã đần độn hoặc một thợ thủ công làm trò giải trí, một gã lái buôn thật thà hoặc gian manh. Từ khoảnh khắc đó trở đi anh ta không còn có thể tự cho mình là nghệ sỹ được nữa”.

Theo Wilde, nghệ thuật đã trở thành sự biểu hiện chủ nghĩa cá nhân:

“Nghệ thuật là phương thức mạnh mẽ nhất của Chủ nghĩa cá nhân mà thế giới đã biết. Tôi có xu hướng nói rằng đó là phương thức thực sự duy nhất của Chủ nghĩa Cá nhân mà thế giới đã biết. Tội phạm, mà trong những điều kiện nhất định dường như đã tạo ra Chủ nghĩa Cá nhân, phải buộc người khác nhận thức được và gây trở ngại cho họ. Nó thuộc về lĩnh vực hành động. Nhưng một mình nghệ sỹ có thể tạo nên một thứ đẹp đẽ, mà chẳng dính dáng gì tới những người xung quanh và không dây vào việc của họ; và nếu y không làm điều đó chỉ vì khoái cảm của riêng mình thì y hoàn toàn không phải là một nghệ sỹ.”

Như vậy Mỹ thuật là khái niệm ra đời từ t.k. XVIII để chỉ loại hình nghệ thuật thị giác riêng biệt, như hội họa, điêu khắc, và kiến trúc, được tạo ra chủ yếu nhằm mục đích thẩm mỹ và trí tuệ, được đánh giá bởi vẻ đẹp và ý nghĩa. Trừ kiến trúc, trong đó tính hữu dụng được chấp nhận như đặc thù do bản chất nhị nguyên của nó, khái niệm Mỹ thuật đã loại bỏ ngay từ đầu tính hữu dụng. Còn Nghệ thuật Thủ Công/Nghệ thuật Trang trí/Nghệ thuật Ứng dụng/Nghệ thuật Dân gian, gọi tắt là Mỹ nghệ, là thể loại nghệ thuật được tạo ra chủ yếu nhằm phục vụ một mục đích hữu dụng nào đó hoặc để giải trí tiêu khiển.

Đi cùng với sự phân chia này là sự tách biệt nghệ sỹ (artist) với nghệ nhân (artisan) và tách biệt thẩm mỹ với tính hữu dụng và các khoái lạc thông thường. Nghệ sỹ được đánh giá thông qua việc thể hiện thiên tài, tính sáng tạo, và sự độc đáo của mình trong tác phẩm nghệ thuật. Việc thưởng thức mỹ thuật đòi hỏi các phán xét tinh tế, thường được gọi là thị hiếu tốt (tiếng Pháp: bon goût, tiếng Anh: good taste), giúp phân biệt các tác phẩm mỹ thuật với các sản phẩm mỹ nghệ.

2. Sự ra đời của thuật ngữ “mỹ thuật”

Triết gia và nhà thẩm mỹ học người Pháp Charles Batteux (1713 – 1780) là người đầu tiên đã trình bày mỹ thuật như một hệ thống tách bạch bao gồm Hội họa, Điêu khắc, Kiến trúc, Thi ca, Âm nhạc, và Múa (hay Nghệ thuật của Cử chỉ) trong cuốn sách “Les beaux arts réduits à un même principe” (Mỹ thuật quy về một nguyên tắc duy nhất) xuất bản năm 1746 [5]. Các quan điểm của Batteux đã có ảnh hưởng lớn và được chấp nhận rộng rãi không chỉ ở Pháp mà trên toàn châu Âu. Khái niệm Beaux-Arts, tức Mỹ thuật, ra đời và được thừa nhận từ đó.

Tới năm 1784, trong cải cách giáo dục cao học và nghệ thuật, Đại Công tước xứ Tuscany Pietro Leopoldo I di Toscana đã cải tạo và đổi tên Accademia delle Arti del Disegno, tức Hàn lâm viện (hay Học viện) các Nghệ thuật Dessin ở Florence (do Đại Công tước Cosimo I de’ Medici thành lập năm 1563), thành Accademia di Belle Arti, tức Hàn lâm viện (hay Học viện) Mỹ thuật. Chương trình học của Hàn lâm viện Mỹ thuật Florence bao gồm Hội họa, Điêu khắc, Kiến trúc, Trang trí và Khắc trổ đồng. Một sưu tập nghệ thuật Cổ đại và Hiện đại (tức đương thời) cũng được thiết lập tại Hàn lâm viện. Ngày nay đó là hai bảo tàng mỹ thuật Galleria dell’Accademia và Galleria d’Arte Moderna di Palazzo Pitti ở Florence.

Ở Pháp, vào năm 1803, Classe des Beaux-Arts, tức Lớp Mỹ thuật, của Institut de France đã được thành lập tại thủ đô Paris. Đó là tiền thân của Académie dés Beaux-Arts, tức Hàn lâm viện Mỹ thuật, ra đời năm 1816, sau khi hợp nhất Académie Royale de Peinture et de Sculpture (Hàn lâm viện Hoàng gia về Hội họa và Điêu khắc), Académie Royale de Musique (Hàn lâm viện Hoàng gia về Âm nhạc), và Académie Royale d’Architecture (Hàn lâm viện Hoàng gia về Kiến trúc), được thành lập từ t.k. XVII, thành một trong năm hàn lâm viện của Institut de France. Năm 1863 Napoléon Đệ Tam ra quyết định cho phép Hàn lâm viện Mỹ thuật độc lập với nhà nước, và đổi tên thành École des Beaux-Arts, tức Trường Mỹ thuật Paris.

Victor Tardieu (1870 – 1937), người sáng lập và hiệu trưởng đầu tiên của École des Beaux-Arts de l’Indochine, tức Trường Mỹ thuật Đông Dương, từng là sinh viên chính thức của Trường Mỹ thuật Paris từ năm 1890 tới năm 1894.

3. Vai trò của trường Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD)

Từ lịch sử và định nghĩa của mỹ thuật nói trên, có thể thấy, trước khi École des Beaux-Arts de l’Indochine, tức trường MTĐD, được thành lập vào năm 1924, nghệ thuật ở Việt Nam vẫn là nghệ thuật dân gian, thuộc phạm trù Mỹ nghệ, trong đó nghệ nhân là thành viên của một nhóm thợ có nhiệm vụ hoàn thành một đặt hàng nhằm phục vụ một mục đích hữu dụng nào đó như trang trí đình chùa, miếu mạo, sản xuất đồ tiêu dùng, v.v.. Vai trò cá nhân, sự độc lập, tính sáng tạo cũng như danh xưng của nghệ sỹ/nghệ nhân hoàn toàn vắng bóng. Trừ một số ngoại lệ trên đổ gốm sứ [6], hầu hết sản phẩm nghệ thuật đều vô danh.

Trong bài "Les industries indigènes au pays An Nam" (Những nghề bản xứ ở nước An Nam) đăng trên tờ La Dépêche Coloniale (Tin nhanh Thuộc địa) ngày 31 tháng 10 năm 1909, trang 256 – 262, Henri Oger nhận xét:

"Đó là một dân tộc của những người nông dân, chỉ mua những đồ rất rẻ tiền. Chất lượng sản xuất tranh tô màu dân gian An Nam cũng cho thấy khá rõ điều đó. Một điều kỳ lạ là hoạ sỹ tranh màu ở nước này không biết vẽ dessin. Đây là cách họ làm việc. Đề tài của họ, như đã có thể thấy trước, hạn chế về số lượng. Họ phải chép lại từ một thợ vẽ bản xứ. Bản chép đó được gửi tới một thợ khắc gỗ để làm khuôn nổi. Thợ làm tranh màu in trước vài tá đề tài bằng mực đen. Việc của y là tô màu lên trên đó. Tranh dân gian An Nam được trình bày dưới dạng một tập hợp những màu mạnh, lủng củng. Ta thấy ở đó một cách tô màu đậm lòe loẹt, xuất hiện trong nhiều ngôi nhà ở nước này".

Vài năm trước Henri Oger, trong cuốn "Psychologie du peuple annamite" (Tâm lý của dân An Nam) (Ernest Leroux, Paris, 1904) Paul Giran cũng có nhận xét tương tự:

"Để cho đầy đủ, cũng cần nói thêm rằng người An Nam còn biết nghệ thuật sơn ta, khảm trai, ngoài ra, y còn là một thợ thêu tỉ mỉ, một thợ kim hoàn kiên nhẫn và khéo léo, nhưng trong tất cả những thứ đó, y luôn làm theo vẫn một quy trình như vậy, vẫn một sự lười biếng như vậy, vẫn một sự yếu kém về khả năng như vậy. Thờ ơ, thiếu sáng kiến, thiếu khả năng phát minh, y chưa bao giờ là một nhà sáng tạo. Theo một hướng thông minh, y có thể đạt được sự bắt chước gần như hoàn hảo. Y có một tài năng nhất định, nhưng chưa bao giờ từng là thiên tài".

Chỉ sau khi trường MTĐD khai giảng khóa đầu tiên vào năm 1925, người Việt mới được dạy một quan niệm hoàn toàn mới về nghệ thuật. Đó là khái niệm Beaux-Arts, tức Mỹ thuật, như một thể loại nghệ thuật riêng biệt, được tạo ra để chiêm ngưỡng chủ yếu vì tính thẩm mỹ thuần túy của nó chứ không nhằm phục vụ bất cứ một mục đích hữu dụng nào.

Từ nay vai trò cá nhân của nghệ sỹ được đề cao. Nghệ sỹ dùng tài năng của mình vẽ tranh hay tạc tượng không chỉ để tô điểm cung điện, chùa chiền nữa mà chủ yếu để thể hiện sự sáng tạo, bộc lộ cái tôi của mình trong thế giới. Ký tên là một điều dĩ nhiên như một phần không thể thiếu được của tác phẩm. Chữ ký trở thành sự xác nhận của nghệ sỹ rằng đây chính là tác phẩm của y, được sáng tạo, hoàn thành, và chấp thuận bởi chính y và chỉ một mình y mà thôi chứ không phải ai khác, kể cả vua chúa và quan lại. Việt Nam bắt đầu có một nền mỹ thuật, một giới nghệ sỹ hữu danh sáng tác và ký tên lên tác phẩm của mình, triển lãm tác phẩm theo tinh thần mỹ thuật phương Tây.

Vì thế trường MTĐD chính là nơi khai sinh nền mỹ thuật Việt Nam, chứ không phải "mỹ thuật hiện đại" Việt Nam như một số tác giả từng viết, bởi một lẽ đơn giản rằng trước khi trường MTĐD ra đời, dải đất hình chữ S này chưa từng có một nền mỹ thuật như một hệ thống riêng biệt theo quan niệm đã được phân tích ở trên.

Và họa sỹ Victor Tardieu (1870 – 1937), người sáng lập đồng thời là hiệu trưởng đầu tiên của trường MTĐD, hoàn toàn có thể được coi là cha đẻ của nền mỹ thuật Việt.

[1] Tính từ giống đực/cái “bello/bella” (số nhiều: belli/belle) trong tiếng Ý có nghĩa là “đẹp”, tương đương “beau/belle” (số nhiều: beaux/belles) trong tiếng Pháp. Tính từ “fine” trong tiếng Anh có nghĩa là “đẹp, tinh tế, thon thả, phẩm chất/chất lượng rất cao, tuyệt vời, v.v.”

Tính từ giống đực tương đương trong tiếng Nga là “изящный”, có nghĩa là “xinh đẹp duyên dáng, kiều diễm, tao nhã”. Thuật ngữ Изящные искусства đã được dùng kể từ khi Hàn lâm viện Nghệ thuật Hoàng gia (Императорская Академия художеств) được thành lập năm 1757 với tên Академия трёх знатнейших (изящных) художеств, tức Hàn lâm viện của ba môn mỹ thuật danh tiếng nhất. Ba môn mỹ thuật đó là hội họa (живопись), điêu khắc (ваяние) và kiến trúc (зодчество). Ngày nay thuật ngữ изобразительные искусства được dùng để chỉ mỹ thật, tương đương fine arts trong tiếng Anh, beaux-arts trong tiếng Pháp và belle arti trong tiếng Ý.

[2] Larry Shiner, The invention of art: A cultural history (The University of Chicago Press, Chicago – London, 2001).

[3] Giorgio Vasari, The lives of the artists (Oxford University Press, Oxford, 1991).

[4] Oscar Wilde, The Complete Works of Oscar Wilde. Volume IV: Criticism: Historical Criticism, Intentions, The Soul of Man, Josephine M. Guy, ed. (Oxford University Press, Oxforf, 2007) 231.

[5] Charles Batteux, Les beaux arts réduits à un même principe (Durand, Paris, 1746).

[6] Trong thủ công mỹ nghệ Việt, các nghệ nhân vẽ gốm Bùi Thị Hý và nghệ nhân đồ gốm thờ tự Đặng Huyên Thông ở Nam Sách, Hải Dương, là những ngoại lệ hiếm hoi đã ghi tên tác giả lên sản phẩm từ cuối t.k. XV và cuối t.k. XVI.

Tại Việt Nam hiện nay, ngành công nghệ thông tin là một trong những ngành mũi nhọn hỗ trợ nền kinh tế. Ngày càng có nhiều xu hướng ứng dụng các sản phẩm của công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất và thương mại. Điều này cho thấy nhiều cơ hội phát triển và mở rộng của lĩnh vực khoa học này. Vậy, sự phát triển của công nghệ thông tin đang diễn ra cụ thể ra sao? Hãy đọc nội dung bài viết dưới đây của E-PTIT để có thông tin nhé!